Tác giả tập thơ “Nắng từ chân cỏ” là Đại tá, Nhà báo, Nhà thơ Phan Tùng Sơn. Anh hiện là Trưởng Cơ quan Đại diện Báo Quân Đội Nhân Dân tại TP Hồ Chí Minh.
Hơn 30 năm làm báo, Phan Tùng Sơn gắn bó, tâm huyết với những đề tài về con người, đời sống và giá trị tinh thần của người lính, phản ánh hiện thực bằng cái nhìn điềm tĩnh và trách nhiệm. Ở địa hạt thơ ca, anh không tìm đến sự phô diễn cảm xúc, mà lựa chọn cách viết tiết chế, giàu suy ngẫm, hướng về những điều bình dị của đời sống.
“Nắng từ chân cỏ” là một tập thơ trẻ trung, giàu màu sắc, gợi mở ra một không gian cảm xúc rộng rãi, khi tác giả hòa mình vào đời sống, ký ức, với những chiêm nghiệm sâu lắng sau hành trình dài trải nghiệm của mình. Ở đó có hình ảnh tác giả từ thuở ấu thơ, có tấm lòng hiếu kính của cậu con trai nhỏ dành cho đấng sinh thành, có chàng trai thuở mới chớm yêu, có một gã trung niên nhiều nuối tiếc trước những ký ức ngày còn khờ dại, vụng về... Mỗi bài thơ như một lát cắt đời sống, nhẹ nhàng mà sâu thẳm.

Điểm dễ nhận ra trong “Nắng từ chân cỏ” là chất đời sống rất đậm. Thơ Phan Tùng Sơn không dựng lên những không gian xa lạ, mà trở về với gia đình, làng quê, ký ức tuổi thơ, với cha mẹ, với những buổi sớm, khoảng chiều, bờ sông, con đường cũ... Trong thơ anh, người cha hiện lên với mùi mồ hôi với tiếng ngáy dập dồn, với sự nhọc nhằn lặng lẽ, hình bóng mẹ in hằn qua những mùa nặng gánh áo cơm, qua hình tượng bàn tay nâng mũi thuyền ước mơ chắp cánh cho con. Đó là thứ tình cảm không cần đa ngôn hay lớn tiếng hô hào mà chỉ cần những rung cảm đằm sâu trong từng câu, từng chữ cũng đủ sức neo giữ cả một đời người.
Có những câu thơ đầy da diết, thương cảm với hình ảnh người cha nhân từ, nuôi con bằng tất cả nhọc nhằn và yêu thương:
''Mặt trời giấu lửa thung xa, bến sông cũ con đò gối bãi
Con vẫn thấy tuổi mình khờ dại, nằm bên cha nghe tiếng ngáy dập dồn
Tiếng ngáy khổ kham như tiếng suối khe cạn mình bên dốc núi
Con đã quen nghe cùng mùi mồ hôi cha nhọc nhằn cát bụi
Chợt giật mình rồi một ngày giữa dòng đời cặm cụi, con vắng cha tiếng ngáy tắt bên đời...''
(Thưa cha)
Và hình ảnh người mẹ với những day dứt khôn nguôi:
''Một mai không còn mẹ nữa
quê hương trong con khi ấy có gì
đường sẽ xa...
xóm làng bỗng lạ
những kiếp người hun hút tiễn nhau đi...''
(Một mai không còn mẹ nữa)
Mảng ký ức gia đình được tái hiện bằng cảm xúc chân thật, không tô vẽ, nơi những điều tưởng chừng rất đời thường lại trở thành điểm tựa tinh thần bền vững. Song hành với hình ảnh mẹ cha là tấm lòng hiếu thảo, sự thấu hiểu và biết ơn của người con đối với những gian truân mà cha mẹ đã đi qua:
“Cha đắp đầy thời gian bằng những mùa đói khát, làng quê nghèo ngặt nghĩ nỗi truân chuyên
Con vẽ ước mơ con bằng hình ảnh con thuyền
Mẹ nâng mũi thuyền con dập dềnh sóng cả
Cha gắn cho con lá bùa mang hình hài tiên tổ
Con rời làng từ độ mùa khát những cơn mưa…”
(Mưa miền thơ ấu)
Miền ký ức ấy có những buổi sớm, những khoảng chiều, những con đường quen, hay những ý nghĩ chợt đến trong thinh lặng... Đó là điểm tựa để tác giả soi chiếu nội tâm, gửi gắm suy tư về con người, về thời gian, về sự bền bỉ của những điều giản dị đầy chất đồng dao:
''... Cha bới tóc tiêu muối lòng mấy dạo
Mẹ vắt mồ hôi ngày mòn cơm áo
Bờ sông hút gió trẻ nhỏ tắm truồng
Con đường lá xưa hạt về ủ cội
Tôi đi năm dài em đừng ngắn vội
Một bước sang ngang sống đời vạn thước
Buồm ủ ngày mưa mái chèo nước ngược
Ếch tót sen hồ tôm búng sông trăng...''
(Ếch tót sen hồ tôm búng sông trăng)
Có khi câu chữ lại lắng xuống buôn buốt trong nỗi chờ đợi, trong cảm giác muộn màng trước dòng thời gian vô ngã:
“Ta về muộn
thu đã nhàu dấu cỏ
ngọn heo may thưng thốc buốt đầu cành
neo thuyền đợi bên dòng sông thương nhớ
nơi cuối trời
em có biết mà xanh…”
(Muộn)
Có khi câu thơ cất lên cao vút như một khúc hát đầy những hờn dỗi, đáp lời với mối tình đầu đời:
''Bởi em đẹp lắm cao sang lắm
dập dìu bao kẻ đón người đưa
bởi tôi nghèo lắm xù xì lắm
trót yêu nên biết mấy cho vừa''
(Còn một khung trời với một tôi)
Và cả những câu hỏi ngỡ như... không cần hỏi, vừa hỏi vừa trả lời, vừa tự sự mà khi đọc lên, hình như ai cũng thấy bóng dáng mình trong đó:
''...Hình như em đã lấy chồng
Cái cò cõng nắng sang sông mấy mùa...
Hoa hè còn tím sim mua
Mái gianh phên liếp gió lùa xuyên không...''
(Hình như)
Những câu thơ ấy tưởng chừng bình dị nhưng được viết bằng một vốn ngôn từ dày dặn, chắc tay. Cách sử dụng ngôn ngữ cho thấy dấu ấn của một người làm nghề chữ nghĩa lâu năm. Thơ của Phan Tùng Sơn không dễ đọc lướt, người đọc phải thật chậm rãi, càng đọc sẽ càng càng thấm, qua đó ta thấy được bề dày vốn sống của tác giả. Phải thật từng trải và bình thản trước cuộc đời, thật khiêm nhường nhưng giàu chất liệu sống mới có thể lột tả, chắt lọc những điều đẹp đẽ giữa bộn bề vội vã, nhẫn nại nhìn mọi thứ đi qua và tận hưởng nó một cách nhẹ nhàng.
Đọc “Nắng từ chân cỏ”, có thể cảm nhận rõ sự ''giao thoa'' rõ rệt hai vai trò, một người làm báo và một người làm thơ. Tác giả không hề tìm cách phô trương cảm xúc hay tạo ấn tượng bằng những thủ pháp cầu kỳ, “thơ” rất là “báo”, súc tích, chuẩn xác và an toàn. Cái nhìn của nhà báo giúp thơ chặt chẽ, tỉnh táo và trung thực. Tâm hồn của thơ lại khiến câu chữ mềm mại, dịu dàng đầy cảm xúc. Không có những ẩn dụ phức tạp, không cầu kỳ kỹ thuật, thơ Phan Tùng Sơn đi thẳng vào cảm giác người đọc bằng sự chân thành và giản dị. Người đọc dễ dàng tìm thấy trong thơ những lát cắt của đời mình, những ký ức quen thuộc, những cảm xúc tưởng chừng đã ngủ quên. Đó chính là phong cách thơ của Phan Tùng Sơn: ít khổ đau, ít giãy giụa, ít đắng đót số phận...
Ở tầng sâu hơn, “Nắng từ chân cỏ” là hành trình tự vấn và chiêm nghiệm về con người trước thời gian, không chỉ chất chứa nhiều hình ảnh thiên nhiên mà còn là biểu tượng của giá trị sống. Đó là ánh sáng được sinh ra từ khiêm nhường, từ bền bỉ, từ những điều tưởng như nhỏ bé nhưng lại nuôi dưỡng đời sống tinh thần của cả đời người.
''Nghe rong ruổi những mùa đi thăm thẳm
cõi tịnh xa thưng thức giọng chuông chùa
tôi khấn vọng những điều không thể mất
dưới chân mình tiếng vó ngựa gươm khua...''
(Tịnh khúc)
Thời gian trong thơ Phan Tùng Sơn không ồn ào, không dữ dội, mà lặng lẽ bào mòn, lặng lẽ làm nhàu dấu cỏ, làm con người nhận ra mình đã đi xa, đã về muộn. Trước dòng chảy ấy, tác giả không chống cự, cũng không buông xuôi. Anh chọn cách neo mình lại bằng ký ức, bằng tình thân, bằng những giá trị giản dị đã nuôi dưỡng tâm hồn từ thuở ban đầu.
Vì thế, thơ anh mang dáng dấp của một lời nhắc nhở nhẹ nhàng: Hãy cúi xuống, hãy lắng nghe để nhận ra những điều quý giá vẫn hiện hữu quanh ta, từ những điều nhỏ bé nhất của đời sống, nơi ánh nắng không rơi từ trên đỉnh đầu chiếu xuống, mà bừng lên từ mặt đất, từ chân cỏ, từ những phận người bình dị.
Giá trị của “Nắng từ chân cỏ” nằm ở khả năng chữa lành, ở sự an ủi âm thầm nhưng bền bỉ. Đọc thơ Phan Tùng Sơn, người ta dễ bắt gặp chính mình trong ký ức gia đình, trong những buổi chiều trôi thật chậm, trong cảm giác đã đi qua rất nhiều nơi, gặp gỡ rất nhiều người mà vẫn cần một nơi để trở về. Đó chính là những ký ức lặng lẽ và ấm áp, thứ ánh sáng rực rỡ đủ sức soi rọi tâm hồn người đọc theo cách rất riêng, nhiều màu sắc và tử tế, hiền lành...








